Đến thăm nhà cổ hơn 100 năm tuổi ở làng Vị Hạ, xã Trung Lương, huyện Bình Lục, (Hà Nam) của Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, du khách còn được chiêm ngưỡng nhiều cổ vật quý giá đang được lưu giữ tại đây.
Đầu tháng 7 thời tiết nắng nóng gay gắt nhưng khi bước vào không gian của ngôi nhà cổ của Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến ở làng Vị Hạ, xã Trung Lương, chúng tôi cảm thấy rất dễ chịu. Làng Vị Hạ tục còn gọi là làng Và vốn là quê nội của nhà thơ Nguyễn Khuyến.
Quan lớn hay thường dân tới thăm, viếng thầy đều phải qua đều xuống ngựa, xuống xe bước qua cổng
Từ chiếc cổng cổ kính dẫn vào vườn Bùi với căn nhà gỗ được xây dựng theo lối cổ, phía trước là sân gạch rộng có 2 cây nhãn già to cổ thụ (hơn 2 người ôm) rất xanh mát, bình yên.
Ông Nguyễn Thanh Tùng hơn 80 tuổi là hậu duệ đời thứ 5 của cụ Nguyễn Khuyến kiêm luôn vai trò ‘hướng dẫn viên’, kể cho chúng tôi nghe các câu chuyện liên quan đến lịch sử của ngôi nhà cổ đặc biệt này.
Theo ông Tùng, cụ Tam nguyên Yên Đổ (tức nhà thơ Nguyễn Khuyến) sinh năm 1835, mất năm 1909. Ban đầu nhà thơ có tên là Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn, tự Miễn Chi. Cụ sinh ở quê mẹ, làng Hoàng Xá, huyện Ý Yên (tỉnh Nam Định) nhưng lớn lên và sống chủ yếu ở quê cha, làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo (cha ông đỗ ba khóa tú tài, làm nghề dạy học), bản thân Nguyễn Khuyến thông minh, chăm học và học giỏi.
Bên trên lối cổng và ngôi nhà cổ có khắc 3 chữ Nho xưa. Theo ông Tùng, 3 chữ nho trên là “Môn Tử Môn” có nghĩa là lối ra vào của học trò. Đây là lời răn dạy nghiêm khắc về đạo làm trò của cụ Nguyễn Khuyến. Trước khi vào nhà thầy cho dù là quan lớn hay thứ dân đều phải đúng lễ nghĩa, xuống ngựa, xuống xe đi bộ vào viếng thầy.
Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu thi Hương (Giải nguyên) ở trường Nam Ðịnh; năm 1871, ông đỗ Hội nguyên và tiếp tục thi Ðình đỗ Ðình nguyên. Từ đó, người ta gọi ông là “Tam nguyên Yên Ðổ” (tức người đỗ đầu ba kỳ thi làng Yên Đổ).
Nguyễn Khuyến làm quan ở nội các Huế, rồi làm Đốc học Thanh Hóa, Án sát Nghệ An, rồi Biện lý Bộ Hộ,… Thời gian ông ra làm quan, Pháp đánh chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ và tiến đánh ra miền Bắc. Sống giữa bối cảnh nước mất nhà tan, các phong trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt, nhiều kẻ làm tay sai cho thực dân, Nguyễn Khuyến không thể làm được gì để thay đổi thời cuộc nên xin từ quan về làng Vị Hạ dựng nhà, dạy học, làm thơ cho đến khi mất năm 1909.
Địa chỉ đỏ của du khách là giới học sinh
Khu nhà cụ Nguyễn Khuyến được dựng theo lối kiến trúc: Ngoài là nhà đại tế, trong là hậu cung. Nhà đại tế gồm 7 gian, xây gạch, lợp ngói và có 4 hàng cột. Hậu cung được làm bằng gỗ, theo kiến trúc đồng bằng Bắc Bộ.
“Ngôi nhà cổ của cụ đặc biệt ở chỗ, có lưỡng long chầu nguyệt, 9 bậc đặt ở dưới đất. Bình thường, hình lưỡng long chầu nguyệt hay được đặt ở trên nóc nhà”, ông Tùng-hậu duệ của nhà thơ Nguyễn Khuyến giới thiệu.
Lý giải về điều này, ông Tùng hồ hởi cho biết, ngày xưa, cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến giải thích với các chức sắc rằng làm vậy để tránh nắng hướng đông và hướng tây. Thế nhưng, lý do ban đầu của cụ lại hoàn toàn khác.
“Cụ Nguyễn Khuyến để lưỡng long chầu nguyệt ở dưới đất nhằm ám chỉ vua nhà Nguyễn bán nước nên không cho cưỡi lên đầu rồng, chỉ chầu đằng trước nhà thôi”, ông Tùng chia sẻ.
Bước qua cổng vào là nhà tiếp khách của cụ Nguyễn Khuyến. Ban đầu nhà có lưỡng long chầu nguyệt và 9 bậc thềm nhưng từ năm 2004, khi được tôn tạo lạ, gian nhà này chỉ còn lại 3 bậc.
Trong hậu cung vẫn lưu giữ hòm sách và ống quyển (ống dùng để chứa giấy thi và bài thi của thí sinh xưa) từ ngày cụ Nguyễn Khuyến còn dùi mài kinh sử.
“Đối với tôi và con cháu, ngôi nhà cổ này là nơi linh thiêng nhất. Bởi lẽ, đây là nơi thờ của cụ và cũng là nơi để lưu giữ những kỷ vật mà cụ Nguyễn Khuyến để lại”, ông Tùng bộc bạch
Phía sau là hậu cung, nơi thờ cụ Nguyễn Khuyến, ngôi nhà cổ này vẫn được giữ nguyên bản lối kiến trúc nhà ở đồng bằng Bắc bộ truyền thống cho đến ngày hôm nay.
Cửa vào hậu cung là cửa bức bàn – loại cửa phổ biến trong các ngôi nhà truyền thống ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ xưa.
Ngói gian hậu cung là loại vảy cá đỏ đất nung thường thấy ở các ngôi nhà xưa ở miền Bắc.
Ông Tùng lên hương cho du khách, học sinh trong vùng đến thắp, tưởng nhớ cụ Nguyễn Khuyến. “Đối với tôi và con cháu, ngôi nhà cổ này là nơi linh thiêng nhất. Bởi lẽ, đây là nơi thờ của cụ và cũng là nơi để lưu giữ những kỷ vật mà cụ Nguyễn Khuyến để lại”, ông Tùng bộc bạch
Lư hương trên ban thờ cụ Nguyễn Khuyến là cổ vật quý mà vua nhà Mạc đã ban cho tổ đời thứ 10 của cụ Nguyễn Khuyến. Trên thân bát hương khắc 4 chữ Nôm và có biểu tượng hình rồng, phượng, tượng trưng cho sự cao quý. “Lư hương và đôi rồng nạm ngọc là 2 cổ vật quý đã từng bị trộm lấy đi và thất lạc nhiều năm mới được trả về được chúng tôi đưa lên thờ cụ”, ông Tùng tiết lộ.
Bức cuốn thư cả trăm năm tuổi treo ngay cửa ra vào là món quà mà cụ Dương Khuê – bạn thân cụ Nguyễn Khuyến tặng tỏ lòng tôn phục Nguyễn Khuyến vì ông đỗ đầu cả ba khoa thi Hương, thi Hội, thi Đình và giành bảng vàng tiến sĩ năm 1871.
Trong gian hậu cung còn có tù trưng bày, giới thiệu các kỷ vật của cụ Nguyễn Khuyến và bằng công nhận ngôi nhà là Di tích lịch sử cấp quốc gia do Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) trao cho gia đình năm 1991.
Trong ngôi nhà cổ còn lưu giữ nhiều hình ảnh, kỷ vật của cụ Nguyễn Khuyến trong kỳ thi và lễ xướng danh khóa thi năm xưa.
Sau kỳ thi Tân Mùi (1872) cụ đã đỗ đầu 3 khoa, vua Tự Đức ban cho cụ hai tấm bảng “Ân tứ vinh quy” và “Nhị giáp tiến sĩ” để cụ trở về quê hương vinh quy bái tổ. Hiện vật nay vẫn còn được lữu giữ cẩn thận tại ngôi nhà cổ của cụ tại làng Vị Hạ, xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Bể nước cung cấp nguồn nước sạch cho gia đình cụ Nguyễn Khuyến ngày trước và hiện nay.
Con lạch trước cửa ngôi nhà tiếp khách của cụ Nguyễn Khuyến tượng trưng cho cây bút lông..
Ao nước bên cạnh con lạch tượng trung cho nghiên mực của các nhà nho xưa. Theo ông Tùng, cụ Nguyễn Khuyến giỏi về địa lý – phong thủy nên tính toán cho đào 1 cái ao và 1 con lạch cạnh nhau. Cụ mệnh Hỏa, trấn trạch 2 thủy 1 hỏa để cân bằng âm dương.(Trước đây, ao rộng 1,3 mẫu nhưng do nhiều lý do hiện giờ ao chỉ còn diện tích khoảng 6 sào Bắc Bộ).
Bên vườn Bùi còn lưu giữ một bia đá khắc bài “Thu Điếu” của nhà thơ Nguyễn Khuyến bằng chữ Nôm, chữ Quốc ngữ và tiếng Anh. Ông Tùng cho hay: Các sáng tác của cụ Nguyễn Khuyến hầu hết được làm sau lúc từ quan, hiện còn khoảng hơn 400 bài, gồm thơ, văn, câu đối bằng chữ Hán và chữ Nôm. Đáng kể hơn hết là “Quế Sơn thi tập” khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán. Sáng tác của Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến chủ yếu xoay quanh ba nội dung: Bộc bạch tâm sự của mình; viết về con người, cảnh vật và cuộc sống ở quê hương – một vùng đồng chiêm nghèo ở Bắc Bộ; chế giễu, đả kích những kẻ tham lam, ích kỷ, cơ hội lúc bấy giờ…
Ông Nguyễn Thanh Tùng hơn 80 tuổi là hậu duệ đời thứ 5 của cụ Nguyễn Khuyến cho biết, trung bình mỗi năm ngôi nhà cổ của cụ Nguyễn Khuyến đón tiếp hàng nghìn lượt khách du lịch, học sinh tại các tỉnh, thành khắp cả nước đến thắp hương, thăm quan, chiêm ngưỡng cảnh quan, không gian, cổ vật
Nguồn: https://danviet.vn/co-vat-quy-hiem-trong-ngoi-nha-co-hon-100-nam-tuoi-cua-nha-tho-nguyen-khuyen-o-ha-nam-20220708115556865.htm